Xung đột lợi ích và tâm lý “miễn cưỡng” của chủ đầu tư

Trong bối cảnh mưa lũ cực đoan tại miền Trung thời gian qua, câu chuyện vận hành hồ chứa, đặc biệt là các hồ thủy điện, tiếp tục làm nóng dư luận. GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, cho rằng gốc rễ của nhiều bất cập hiện nay nằm ở việc xung đột lợi ích, cơ chế vận hành cứng nhắc và khoảng trống pháp lý trong quản lý an toàn đập.

Theo GS. Dũng, nhiều hồ thủy điện hiện nay có dung tích phòng lũ quá nhỏ so với tổng dung tích chứa. Có hồ chứa tới 800 triệu m³ nước nhưng phần dung tích dành cho cắt lũ chỉ khoảng 70 triệu m³ – chưa đến 10%.

ngập lut 1 1779.jpg
Chuyên gia cảnh báo, xả lũ thiếu chủ động khiến nước đổ về đột ngột, gây ngập lụt tại hạ du và đẩy người dân vào tình cảnh không kịp trở tay.

Muốn tăng dung tích phòng lũ, Nhà nước buộc phải yêu cầu chủ đầu tư hạ thấp mực nước hồ từ sớm. Nhưng nếu hạ nước trước mà mưa không đến, nhà máy sẽ thiếu nước phát điện, tua-bin mài mòn do vận hành ở mức công suất thấp, doanh thu sụt giảm. “Đó là thiệt thòi rõ ràng đối với nhà đầu tư tư nhân”, ông phân tích.

Vì vậy, khi phải xả nước theo mệnh lệnh hành chính, nhiều chủ đầu tư rơi vào trạng thái “miễn cưỡng tuân theo”, vận hành vừa làm vừa dè chừng. Điều này dễ dẫn đến xử lý bị động và làm gia tăng rủi ro.

Ông dẫn ví dụ: hồ nhận yêu cầu xả từ 0-5.000m³/s. Với một chỉ đạo “lưng lửng” như vậy, buổi sáng hồ chỉ xả 200-300m³/s. Đến khoảng 15h, thấy nước lên nhanh, họ mới mở toàn bộ cửa xả lên 4.000m³/s, khiến hạ du dâng đột ngột, người dân không kịp trở tay.

Theo GS. Dũng, các yêu cầu vận hành hồ phải dựa trên tính toán kinh tế – kỹ thuật. Chẳng hạn, nếu Nhà nước yêu cầu hồ phải xả trước 200 triệu m³ để đón lũ, phải có cơ chế bù đắp thiệt hại rõ ràng, có thể thông qua Quỹ phòng chống thiên tai. “Không thể huy động tư nhân đầu tư rồi đến lúc khó khăn lại đổ hết trách nhiệm lên họ”, ông nhấn mạnh.

Hồ thủy điện cũng phải đặt mục tiêu giảm lũ lên hàng đầu

GS. Dũng cho biết hiện tổng dung tích các hồ chứa trên cả nước khoảng 70 tỷ m³, trong đó 55 tỷ m³ thuộc về thủy điện. Thực tế đợt lũ vừa qua ở Trung Bộ, người dân hạ du chủ yếu chịu ảnh hưởng từ xả lũ thủy điện, chứ không phải thủy lợi.

Thực tế nhiều dự án thủy điện được phê duyệt theo thứ tự ưu tiên: phát điện là mục tiêu số một, cắt lũ chỉ là nhiệm vụ kết hợp. Tuy nhiên, bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu bảo vệ dân sinh đòi hỏi phải rà soát lại, điều chỉnh mục tiêu vận hành theo hướng coi giảm lũ là nhiệm vụ bắt buộc hàng đầu.

GS. Dũng .jpg
GS.TS Nguyễn Quốc Dũng.

Về công nghệ giám sát lũ, ông Dũng cho rằng Việt Nam hoàn toàn có khả năng áp dụng bản đồ ngập lụt kết hợp định vị.

“Khi làm được bản đồ ngập theo thời gian thực, chúng ta sẽ biết khu vực nào lũ đang đến, mực nước bao nhiêu, có bao nhiêu người trong vùng nguy hiểm, đám đông di chuyển ở đâu. Điều đó sẽ giúp chỉ đạo sơ tán chính xác, tránh tình trạng bị động như vừa qua”, ông nhấn mạnh.

Đập du lịch, đập bùn thải chưa được quản lý

Một thực tế đáng lo ngại hiện nay là nhiều loại hình đập mới, như đập bùn thải hay đập phục vụ du lịch, vẫn chưa được đưa vào khung pháp lý về an toàn đập. GS. Dũng cho rằng các sự cố ở Lâm Đồng vừa qua cho thấy pháp luật đang bỏ trống một mảng quan trọng. Ông đề xuất cần hợp nhất quy định và tiến tới xây dựng Luật An toàn đập, tương tự như mô hình mà Ấn Độ đã triển khai.

GS. Dũng nhấn mạnh để quản lý tài nguyên nước hiệu quả phải tổ chức theo lưu vực sông, thống nhất dữ liệu, nâng cao tính chuyên nghiệp, tránh việc mọi tình huống đều phải xin ý kiến Thủ tướng.

PGS.TS Hoàng Thái Đại, đại diện Hội Thủy lợi Việt Nam, cũng cho rằng trước đây quản lý tài nguyên nước bị phân tán ở nhiều cơ quan, dẫn đến chồng chéo. Việc hợp nhất Bộ Nông nghiệp và Môi trường là tín hiệu tích cực, giúp thống nhất chính sách, dữ liệu và hệ thống quan trắc.

Ông nhắc lại những xung đột giữa thủy điện và thủy lợi khi hai ngành vận hành tách rời. Trong bối cảnh mới, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần phối hợp chặt chẽ hơn với Bộ Công Thương và Bộ Xây dựng để xử lý các vấn đề liên ngành. Chỉ khi có cơ quan điều phối thống nhất và dữ liệu đầy đủ, các quy trình vận hành liên hồ mới thực sự hiệu quả.

Mưa lũ cực đoan dồn dập, chuyên gia cảnh báo ‘lỗ hổng’ trong vận hành hồ chứaThời tiết cực đoan, bão lũ bất thường khiến hệ thống hồ chứa đứng trước nguy cơ quá tải, trong khi cảnh báo và dự báo vẫn lệ thuộc vào mô hình cũ.