Đổi mới giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Sửa Luật Giáo dục: Có nên tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông? Kiểm định chặt chẽ chất lượng đào tạo ngành sư phạm, luật và y dược

Cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội

Qua giám sát cho thấy, trong thời điểm hiện nay, nguồn nhân lực của nước ta cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao tăng cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu ngày càng phù hợp hơn; trình độ, kỹ năng của lực lượng lao động được nâng lên; năng suất lao động, việc làm, thu nhập của người lao động có chuyển biến tích cực.

Đối với khu vực công lập, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phần lớn có trình độ từ đại học trở lên; công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý và phát triển nguồn nhân lực được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm công khai, minh bạch theo quy định, chất lượng, trình độ đội ngũ nhìn chung đáp ứng yêu cầu.

Đối với khu vực ngoài công lập, số lượng lao động tăng bình quân khoảng 0,65%/năm trong giai đoạn 2021 – 2024, cao nhất là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2024, có gần 47,3 triệu người lao động làm việc ở khu vực ngoài nhà nước, chiếm 89,3% tổng lực lượng lao động và chiếm trên 91% tổng số lao động có việc làm của nền kinh tế.

Chất lượng giáo dục, đào tạo ngày càng được nâng lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển nguồn nhân lực. Quy mô đào tạo đại học và nghề nghiệp nhìn chung ổn định trong giai đoạn giám sát. Cơ cấu ngành nghề, trình độ, lĩnh vực đào tạo đa dạng. Nhiều ngành mới được mở, thích ứng nhanh với nhu cầu của thị trường lao động.

Đào tạo nhân lực chất lượng cao bước đầu được quan tâm với hệ thống trường chuyên, các chương trình đào tạo nghề trọng điểm quốc tế, chương trình đào tạo kỹ sư và cử nhân tài năng, đào tạo có yếu tố nước ngoài…

Đổi Mới Giáo Dục Để Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực
Phiên họp thứ 48 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ảnh: Quốc hội

Một số địa phương, đơn vị sự nghiệp công lập đã thực hiện thi tuyển công khai một số vị trí lãnh đạo, cho phép nhân sự ngoài hệ thống được thi tuyển, thí điểm trả lương cao cho giảng viên, bác sĩ giỏi, có cơ chế nội bộ linh hoạt về lương, môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ khác để giữ người tài…

Chưa có quy định đầy đủ, toàn diện về nhân lực chất lượng cao

Bên cạnh kết quả đạt được, Đoàn giám sát cũng chỉ ra, Chính phủ, một số bộ, ngành và hầu hết các địa phương chưa ban hành văn bản tổng thể, định hướng chiến lược dài hạn về phát triển nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao. Một số chiến lược, chương trình, đề án, trong đó có những văn bản quan trọng, có tính chiến lược chậm được ban hành, triển khai thực hiện còn hạn chế, kết quả chưa rõ nét.

Chưa có quy định đầy đủ, toàn diện về nhân lực chất lượng cao, do đó, khó khăn trong công tác nhận diện, phát hiện nhân tài, người có trình độ cao và việc hoạch định chính sách thu hút, bồi dưỡng nhân tài, nhân lực chất lượng cao.

“Bước vào kỷ nguyên mới, yêu cầu về nhân lực chất lượng cao ngày càng cấp thiết, đất nước ta đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành, “tổng công trình sư”, nhóm nghiên cứu mạnh trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế mới, nhân lực phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực quan trọng khác”, Đoàn giám sát cho biết.

Cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa thực sự hợp lý, chưa gắn kết chặt chẽ và theo kịp nhu cầu của thực tiễn. Một bộ phận không nhỏ sinh viên tốt nghiệp đại học chưa đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng, nhất là về kỹ năng, độ thích ứng và tính chuyên nghiệp. Ước tính 30% sinh viên tốt nghiệp không làm việc trong lĩnh vực được đào tạo.

Đào tạo nhân lực chất lượng cao chưa được đầu tư xứng tầm. Việc chuyển giao, nhân rộng các chương trình đào tạo nghề theo chuẩn quốc tế còn khó khăn, thiếu đồng bộ. Kết quả phân luồng giáo dục đạt thấp so với mục tiêu. Công tác hướng nghiệp, định hướng nghề nghiệp cho học sinh chưa thực sự hiệu quả…

Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm. Tỉ lệ lao động có việc làm phi chính thức còn khá cao, chiếm 64,6% lực lượng lao động, đa số thu nhập thấp, thời gian làm việc kéo dài, điều kiện lao động không bảo đảm. Cơ cấu lao động theo trình độ đào tạo còn bất hợp lý. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2024 đạt 28,3%. Cả nước còn khoảng 38 triệu lao động chưa qua đào tạo…

Từ thực tiễn nêu trên, Đoàn giám sát đưa ra một số kiến nghị về hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện. Trong đó, về tổ chức thực hiện, Đoàn giám sát kiến nghị Chính phủ giao một cơ quan chủ trì quản lý nhà nước về lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực ở cả khu vực công và ngoài công lập, chịu trách nhiệm theo dõi, dự báo, xây dựng chiến lược về phát triển nguồn nhân lực quốc gia và giám sát, đánh giá kết quả thực hiện.

Đồng thời tập trung đầu tư, nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp trọng điểm, gắn với các nhóm ngành nghề được ưu tiên. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tư nhân. Khuyến khích đào tạo theo đặt hàng của doanh nghiệp và các tổ chức sử dụng lao động.

Bên cạnh đó, xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời, chú trọng đào tạo lại, đào tạo nâng cao, đào tạo chuyển tiếp; phát triển đa dạng hình thức đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức cho người lao động, mở rộng thực hiện hình thức đào tạo trực tuyến.

Làm rõ tiêu chí xác định mức chi 20% ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo và bảo đảm thực hiện đúng, đủ quy định về mức chi tối thiểu. Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm tỷ lệ hợp lý giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển theo hướng tăng dần chi đầu tư phát triển…

Cho ý kiến tại phiên họp, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao nỗ lực của Đoàn giám sát, đồng thời góp ý, đề nghị nhiều nội dung để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Đổi mới công tác giáo dục đào tạo, tập trung nâng cao chất lượng đào tạo từ phổ thông, đào tạo theo thực tiễn Việt Nam; có sự luân chuyển nhân lực giữa khu vực công và tư; cải thiện môi trường làm việc, đổi mới để thích ứng với sự thay đổi…

Để lại một bình luận