Giải quyết điểm nghẽn phát triển dự án năng lượng quốc gia Tạo lập một thiết chế tư pháp hiện đại, minh bạch Đảm bảo ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt

Về chủ trương tích hợp ba chương trình thành một, đa số đại biểu Quốc hội đồng tình với việc này nhằm khắc phục các tồn tại, hạn chế của giai đoạn trước. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến băn khoăn lo ngại việc sáp nhập có thể sẽ làm giảm chính sách, giảm nguồn lực đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định chủ trương sáp nhập ba chương trình thể hiện quyết tâm thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước, làm cho người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Quyết Tâm Để Người Dân Có Cuộc Sống Ấm No, Hạnh Phúc
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu tại phiên họp. (Ảnh: QH)

Để làm rõ cam kết này, Chính phủ nhấn mạnh ba điểm quan trọng, đó là ngoài các mục tiêu chung, chương trình sẽ tập trung ưu tiên xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Nâng cao hiệu quả thực thi, tránh chồng chéo, trùng lặp chính sách, đồng thời phân cấp phân quyền triệt để cho địa phương; Kéo dài thời gian hỗ trợ đến năm 2035 (thay vì năm 2030 như chương trình hiện hành) để tập trung được nguồn lực dài hạn, đồng bộ và hiệu quả hơn.

Bộ trưởng Trần Đức Thắng nhấn mạnh: “Việc tích hợp không làm giảm chính sách, không thu hẹp phạm vi hỗ trợ mà tạo điều kiện tập trung và ưu tiên hơn cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi – khu vực hiện nghèo của cả nước”.

Trước ý kiến nhiều đại biểu băn khoăn về cơ sở xác định các mục tiêu, đề nghị Chính phủ làm rõ tính khả thi, sự phù hợp với nguồn lực và bối cảnh giai đoạn 2026 – 2030, tránh đặt mục tiêu quá rộng. Về mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 có khoảng 65% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong khi giai đoạn 2021 – 2025 cả nước đã đạt gần 80%, Bộ trưởng cho biết, theo kết quả rà soát của các địa phương, sau sáp nhập, cả nước có khoảng 65,6% số xã có khả năng đạt chuẩn nông thôn mới theo tiêu chí giai đoạn 2021 – 2025. Tuy nhiên, Bộ Tiêu chí nông thôn mới giai đoạn 2026 – 2030 sẽ được ban hành trong tháng 12/2025 theo hướng kế thừa, bổ sung và nâng cao Bộ Tiêu chí giai đoạn 2021 – 2025.

Theo rà soát của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay, có khoảng 42% số xã cơ bản đạt quy định của Bộ Tiêu chí mới giai đoạn 2026 – 2030 và dự kiến sẽ được công nhận đạt chuẩn trong năm 2026 – 2027. Số xã còn lại (khoảng 25%), chủ yếu ở vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, sẽ được tập trung ưu tiên nguồn lực để đạt nông thôn mới đến năm 2030. Như vậy, mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 có khoảng 65% số xã đạt chuẩn nông thôn mới là khả thi.

Về mục tiêu tỉ lệ nghèo đa chiều duy trì giảm từ 1-1,5%/năm và 100% xã nghèo thoát khỏi tình trạng nghèo, Chính phủ báo cáo đây là mục tiêu được khẳng định tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Chỉ thị số 05 của Ban Bí thư khóa XIII. Về thực tế, dự kiến tỉ lệ hộ nghèo chuẩn đa chiều đến cuối năm 2025 còn khoảng 0,9 đến 1%, với mức giảm bình quân trên 1% năm trong giai đoạn 2021 – 2025. Dự kiến tỉ lệ nghèo đa chiều theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2026 – 2030 còn khoảng 9,6% (tương đương với giai đoạn 2022 – 2025). Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho rằng, mục tiêu trên là phù hợp với chủ trương của Đảng, kết quả thực tiễn và có tính khả thi trong điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước ta trong giai đoạn 2026 – 2030.

Về nguồn vốn đầu tư cho chương trình, hai vấn đề lớn được đại biểu quan tâm là mức bố trí vốn ngân sách Trung ương (100.000 tỷ đồng) là thấp trong khi quy định vốn đối ứng của địa phương (400.000 tỷ đồng) là quá lớn, vượt khả năng cân đối của các địa phương, nhất là các địa phương khó khăn. Trước vấn đề đại biểu nêu, Chính phủ đồng tình với ý kiến đại biểu rằng mức vốn ngân sách Trung ương trước mắt bố trí 100.000 tỷ đồng là hạn chế, đặc biệt khi chương trình có phạm vi quy mô địa bàn bao phủ cả nước, gần như toàn bộ các nội dung về phát triển kinh tế – xã hội vùng nông thôn, trong đó ưu tiên vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Trần Đức Thắng làm rõ, trong giai đoạn 2026 – 2030, bên cạnh chương trình này còn bốn chương trình mục tiêu quốc gia khác cùng triển khai trên địa bàn. Cùng với đó là các nguồn vốn khác như: Chương trình phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long; Chương trình bố trí ổn định dân cư vùng miền núi, địa bàn khó khăn (đã được đưa vào dự thảo Nghị quyết Đại hội XIV); Vốn tín dụng chính sách xã hội, vốn tín dụng thương mại đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Vốn của các doanh nghiệp và huy động đóng góp tự nguyện của cộng đồng người dân.

Quyết Tâm Để Người Dân Có Cuộc Sống Ấm No, Hạnh Phúc
Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV. (Ảnh: QH)

Ghi nhận ý kiến các đại biểu, Bộ trưởng Trần Đức Thắng cam kết, để thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình trong quá trình điều hành, Chính phủ sẽ tiếp tục cân đối ngân sách Trung ương để báo cáo Quốc hội ưu tiên bổ sung phù hợp với điều kiện thực tế.

Về tổng mức vốn ngân sách địa phương 400.000 tỷ đồng, Bộ trưởng Trần Đức Thắng giải trình đây là tổng vốn ngân sách địa phương hai cấp của 34 tỉnh, thành phố bố trí cho chương trình (gồm 7 địa phương tự cân đối và 27 địa phương nhận hỗ trợ từ ngân sách Trung ương). Đây là nguồn vốn chủ lực, phản ánh vai trò chủ động và trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền địa phương.

Dẫn chứng từ giai đoạn 2021 – 2025, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, trong tổng số gần 300.000 tỷ đồng vốn địa phương bố trí thực hiện ba Chương trình mục tiêu quốc gia, vốn của 16 tỉnh thành phố tự cân đối ngân sách chiếm khoảng 65%. Đặc biệt, Chính phủ đã có quy định phù hợp về tỉ lệ vốn đối ứng của các địa phương. Đối với các địa phương khó khăn, tỉ lệ vốn đối ứng chỉ khoảng 5% so với vốn từ ngân sách Trung ương hỗ trợ.

Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết, Chính phủ sẽ tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội cùng các đại biểu Quốc hội, tiếp tục rà soát cân đối để xác định mức vốn ngân sách của các địa phương cho phù hợp nhất.

Về nguyên tắc và tiêu chí phân bổ vốn, Chính phủ cam kết tiêu chí sẽ được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo hai nội dung chính: Tập trung ưu tiên phân bổ cao nhất cho địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi so với các địa bàn khác; Địa phương sẽ quyết định và tự chịu trách nhiệm phân bổ chi tiết đến nội dung dự án, nhiệm vụ cụ thể để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể của chương trình. Bộ trưởng Trần Đức Thắng giải trình, nguyên tắc hợp nhất là kế thừa, ổn định, không gián đoạn, không bãi bỏ chính sách đang phát huy hiệu quả, chỉ rà soát sắp xếp lại theo hướng trọng tâm, rõ địa bàn, đối tượng, trách nhiệm.

Chương trình được thiết kế thành hai hợp phần rõ ràng: Hợp phần chung thực hiện trên phạm vi cả nước; Hợp phần đặc thù dành riêng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Mỗi nhiệm vụ cụ thể chỉ bố trí ở một hợp phần trên nguyên tắc rõ nội dung, rõ nguồn lực, rõ thụ hưởng, đồng thời rà soát với các Chương trình mục tiêu quốc gia khác để không trùng lặp đầu tư, không bỏ sót xã nghèo, địa bàn đặc biệt khó khăn.

Về việc ban hành văn bản hướng dẫn, Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì phối hợp với Bộ Dân tộc và Tôn giáo và các bộ ngành liên quan thống nhất trình ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai chương trình, đảm bảo đồng bộ, rõ ràng về nội dung ngay sau khi Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư. Dự kiến chậm nhất là trong tháng 1/2026 sẽ ban hành đầy đủ.

Các Đại Biểu Dự Kỳ Họp Thứ 10, Quốc Hội Khóa Xv. (Ảnh: Qh)
Các đại biểu dự Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV. (Ảnh: QH)

Đối với băn khoăn về việc bỏ sót địa bàn đối tượng và kiến nghị về quy định chuyển tiếp, chương trình tích hợp đã kế thừa đầy đủ chính sách và kết quả đạt được, bảo đảm người dân tiếp tục được thụ hưởng đầy đủ, đặc biệt tập trung ưu tiên cho địa bàn xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Chính phủ cũng đã chuẩn bị kỹ lưỡng về cơ sở pháp lý như ban hành Nghị định về phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 – 2030, chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026 – 2030 và bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp, bảo đảm khi chương trình triển khai sẽ không bị khoảng trống về pháp lý, chính sách được chuyển tiếp thông suốt.

Đa số đại biểu tán thành giao một cơ quan làm chủ chương trình. Chính phủ đã giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường là cơ quan chủ chương trình, chịu trách nhiệm tổng hợp báo cáo và giải trình chung. Các bộ ngành khác chủ trì nội dung gắn với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đồng thời chịu trách nhiệm giải trình. Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ nghiên cứu báo cáo Chính phủ xem xét phân định nhiệm vụ giữa các bộ ngành, nhất là Bộ Dân tộc và Tôn giáo với nguyên tắc cao nhất là hoàn thành được các mục tiêu của chương trình đặt ra.

Về phân cấp, phân quyền, chương trình được thiết kế theo tinh thần phân quyền tối đa cho địa phương, đi đôi với phân bổ nguồn lực trên nguyên tắc “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, Trung ương giữ vai trò quản lý, ban hành cơ chế, tăng cường kiểm tra giám sát. Cơ chế giám sát cũng được thiết lập ba cấp (Trung ương, Tỉnh, Xã), phát huy vai trò chủ thể của người dân trong giám sát, bảo đảm công khai, minh bạch và nâng cao trách nhiệm giải trình của chính quyền các cấp.

Nguồn Trang : https://laodongthudo.vn/quyet-tam-de-nguoi-dan-co-cuoc-song-am-no-hanh-phuc-202561.html

Để lại một bình luận